Thứ Năm, 21 tháng 3, 2013


CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI HOÀNG SA, TRƯỜNG SA QUA CÁC NGUỒN THƯ TỊCH (4)


>> Chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa qua các nguồn thư tịch (3) 


* Bài cuối: Các học giả trên thế giới nói gì về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa?
(Cadn.com.vn) - Cái gọi là “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với hai quần đảo mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam), cũng như với gần 80% diện tích của Biển Nam Trung Hoa (tức biển Đông), không chỉ bị các học giả Việt Nam phản bác mà còn bị các học giả trên thế giới phủ nhận, chỉ trích gay gắt.
Trong cuốn sách Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, do NXB L’Harmattan ấn hành tại Pari tháng 3-1996, bà Monique Chemillier – Gendreau giáo sư khoa Công pháp và Khoa học Chính trị của Trường Đại học Paris VII-Denis Diderot, một gương mặt sáng giá của Hội Luật gia quốc tế, đã đưa ra những luận cứ nghiêm túc, khách quan về vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo này. Nhận định đây là một cuộc tranh chấp vừa có tính lịch sử vừa có tính pháp lý nên sử gia Munique yêu cầu phải xem xét kỹ các nguồn sử liệu để trên cơ sở đó các luật sư đưa ra các kết luận của mình.
Đối với những lập luận của Trung Quốc, bà cho rằng những tài liệu mà các học giả Trung Quốc trưng dẫn như Nam châu dị vật chí, Phù Nam truyện, Dị vật chí, Lĩnh ngoại đại đáp, Chư phiên chí, Đảo di chí lược, Đông Tây dương khảo, Vũ bị Chí v.v..., đều “chỉ được xếp vào số các tài liệu chứng minh sự hiểu biết chung các địa điểm chứ không có ích gì cho lập luận pháp lý”. Việc Trung Quốc vin vào cái cớ trong thư tịch cổ của mình có nói đến việc trông thấy các đảo ở Nam Hải để rồi cứ chủ trương “hễ cái gì tôi thấy là của tôi” thì đó chính là một sự xâm lược, nhưng “bằng cách quanh co đó và không đếm xỉa đến các dân tộc, người ta có thể tiết kiệm không dùng từ xâm chiếm mà nói đơn giản là phát hiện”. Nữ giáo sư này chỉ ra rằng, các tham vọng của Trung Quốc còn mâu thuẫn bởi chính các nguồn tư liệu khác của họ, bởi có quá nhiều tài liệu địa lý cổ mô tả và phân định rõ lãnh thổ của đế chế Trung Hoa có điểm tận cùng ở phía nam là đảo Hải Nam. Và rằng, chính cuốn Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn viết về chi tiết các thủy thủ Việt Nam đắm thuyền gần quần đảo Hoàng Sa, bị trôi dạt tới bờ biển Trung Quốc, được các nhà chức trách Trung Quốc điều tra và đưa về quê hương mà không có sự phản kháng nào, cả việc viên Tổng đốc Lưỡng Quảng từ chối trách nhiệm giải quyết hai vụ ngư dân đảo Hải Nam cướp lấy hàng hóa trên hai con tàu đắm của Đức và của Nhật tại quần đảo Hoàng Sa với lời giải thích Hoàng Sa là các đảo đã bỏ rơi, không thuộc về Trung Quốc, đủ cho thấy lập luận về chủ quyền đối với quần đảo này của của Trung Quốc thời gian qua là không có cơ sở.
Bìa sách “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” 
của nữ giáo sư Monique Chemillier - Gendreau
Ngược lại, bà Monique Chemillier – Gendreau đánh giá cao các nguồn tài liệu của Việt Nam, vì có rất nhiều và ăn khớp với nhau, lại được bổ sung bằng các ghi chép của nước ngoài đáng tin cậy. Sau khi dẫn lại các nguồn thư tịch như Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, các châu bản và các sách Đại Nam thực lục chính biên, Đại Nam nhất thống chí, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ của Triều Nguyễn, bà đi đến khẳng quyết: Với quần đảo Hoàng Sa “các quyền của Việt Nam lâu đời hơn và vững chắc hơn mặc dù các đòi hỏi của Trung Quốc đã được cụ thể hóa nhờ việc chiếm đóng bằng vũ lực cách đây 39 năm đối với một bộ phận quần đảo và cách đây 29 năm đối với bộ phận kia. Việc xem xét một cách chi tiết các danh nghĩa lịch sử như tôi đã cố gắng thể hiện trên các trang trước dựa trên các tư liệu chắc chắn nhất, chững tỏ danh nghĩa của Việt Nam đã được khẳng định rõ ràng ngay từ đầu thế kỷ XVIII. Các luận cứ mà TQ viện dẫn cho đến nay không cho phép xác nhận sự tồn tại các mối quan hệ pháp lý xưa của thiên triều Trung Quốc với các lãnh thổ đó ” . Với quần đảo Trường Sa tác giả cũng cho rằng khó mà đưa ra những bằng chứng để bác bỏ một sự đồng nhất hóa hai quần đảo (Hoàng Sa và Trường Sa) trong sự quản lý của các vua An Nam. Và như vậy, “Ứng cử viên nghiêm chỉnh nhất giành danh nghĩa trên các đảo này về cả căn cứ lịch sử cổ xưa của họ lẫn cơ chế pháp lý về thừa kế các quyền đã được thực dân khẳng định, đúng là Việt Nam. Nam Việt Nam đến năm 1975 rồi nước Việt Nam tái thống nhất sau đó đã xác định sự có mặt rộng rãi nhất có thể có bằng cách chiếm đóng một số đảo nhỏ”. Còn với việc Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa và một số đảo của quần đảo Trường Sa, nữ giáo sư này cho rằng, đấy là một sự vi phạm thô bạo luật quốc tế hiện đại (Hiến chương Liên Hiệp Quốc: Điều 2, khoản 4) nên “sẽ không bao giờ và bằng bất kỳ cách nào có thể chuyển thành một danh nghĩa có giá trị và được công nhận”.
Với giáo sư Carlyle A. Thayer (Học viện Quốc phòng Úc) thì chỉ nguồn tài liệu bản đồ thôi cũng đủ để ông nhận định: “Những tấm bản đồ, chẳng hạn như sưu tập bản đồ của Trần Thắng, đã cung cấp những hiểu biết mới về lịch sử hình thành những tuyên bố về chủ quyền hiện nay. Những bản đồ này đã chứng tỏ mâu thuẫn của Trung Quốc trong việc tuyên bố “chủ quyền không thể tranh cãi” của họ.
Cùng lên tiếng phản đối những yêu sách phi lý của Trung Quốc, khi Cty dầu mỏ ngoài khơi nước này ký một hợp đồng đặc nhượng cho Cty Năng lượng Cresitoner của Mỹ (8-5-1992) vào thăm dò dầu khí tại khu vực Tư Chính và lập luận rằng khu vực này thuộc vùng nước kế cận quần đảo Nam Sa, lãnh thổ của Trung Quốc, luật sư Brice M. Claget đã đưa ra tài liệu nghiên cứu phân tích về mặt pháp lý liên quan đến khu vực này đăng trên tạp chí “Dầu mỏ và khí đốt của Anh”, số 10 và 11/1995. Trong đó, ông đã chứng minh rằng “yêu sách của Trung Quốc là bất hợp lý”, đối lập với những nguyên tắc của luật pháp quốc tế điều chỉnh quyền đối với thềm lục địa và ranh giới biển, và sẽ bị bất kỳ một tòa án nào bác bỏ khi áp dụng Công ước của Liên Hợp Quốc về luật Biển hay luật tập quán quốc tế. Vị luật sư này còn nhấn mạnh rằng, “yêu sách về vùng nước lịch sử của Trung Quốc, nếu quả có vùng nước lịch sử ấy cũng sẽ bị đánh bật không chỉ do Trung Quốc không khẳng định được yêu sách này, mà còn do luật pháp quốc tế nữa”.
Trong lúc Trung Quốc còn úp mở về tấm bản đồ chín đoạn (còn gọi là đường chữ U hay đường lưỡi bò), nữ giáo sư Monique Chemillier – Gendreau đã gọi đó là tham vọng biến Nam Hải theo cách gọi của những nhà địa lý học thành “vũng hồ quốc gia” của Trung Quốc. Tham vọng đó không những trái ngược với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 mà còn cả với quy định của Trung Quốc về chiều rộng lãnh hải. Tháng 5-2009, khi Trung Quốc công khai dương mưu này bằng việc chính thức yêu cầu Liên Hiệp Quốc lưu truyền trong cộng đồng các nước thành viên tấm bản đồ chín đoạn nhằm yêu sách không chỉ các đảo, đá mà toàn bộ vùng biển trong đó, có học giả đã mỉa mai gọi đấy là “tuyên bố chủ quyền mặt trăng”. Hai học giả danh tiếng về luật quốc tế của Châu Âu là Erik Franckx & Marco Benatar trong một nghiên cứu Chấm và vạch trong Biển Đông: nhìn nhận từ Luật chứng cứ bản đồ đã đưa ra một phân tích về mặt pháp lý quốc tế đối với bản đồ này. Theo hai tác giả, các yếu tố sau đây chứng tỏ sự thiếu sót về chứng cứ vốn có của đường chín đoạn của Trung Quốc. Một là, các bản đồ đường chín đoạn của Trung Quốc đưa ra không tương thích nhau. Bản đồ trước năm 1953 bình thường gồm có 11 vạch nhưng sau đó chỉ còn 9 đoạn. Thậm chí, một bản đồ điện tử trực tuyến gần đây của Cục Khảo sát và Bản đồ Nhà nước Trung Quốc ngày 21- 10- 2010 lại thêm một đoạn nữa mà không có lý do nào được đưa ra cho việc loại bỏ hai vạch trong quá khứ hay việc thêm vào vạch thứ mười mới gần đây. Hai là, ký hiệu bản đồ rời rạc, nhập nhằng, không thể hiện được mục đích về tính rõ ràng, bởi cách mô tả của đường 9 đoạn sai lệch với các tiêu chuẩn vẽ bản đồ quốc tế được Tổ chức Thủy văn Quốc tế đề ra. Ba là, thiếu tính trung lập vì chỉ do Trung Quốc tự vẽ ra đường 9 đoạn, chứ không có một tấm bản đồ nào của nước khác vẽ như vậy. Bốn là, thiếu sự chính xác nghiêm ngặt về tiêu chuẩn kỹ thuật, vì cho đến nay nó chưa bao giờ được phân ranh giới chính xác, do đó thiếu các tọa độ địa lý chính xác. Năm là, nó bị các nước trong khu vực phản đối. Hai tác giả nói thẳng, yêu sách đường 9 đoạn lạ lùng của Trung Quốc là quá đáng, thể hiện những tham vọng “cực kỳ bất thường” của Trung Quốc đối với vùng biển Đông.
Từ những phân tích trên, hai tác giả đi đến kết luận: Việc Trung Quốc  duy trì một tuyên bố đơn phương trong một khoảng thời gian kéo dài mà không xem xét tới quyền lợi của các bên quan tâm khác là đồng nghĩa với việc áp đặt một việc đã rồi. Điều này sẽ vuột mất đi khi đối mặt với luật quốc tế, vì luật pháp quốc tế ngăn không cho các nước mạnh yêu sách “giành phần trọn” gây thiệt hại cho các nước láng giềng yếu hơn.
PGS, TS Ngô Văn Minh


CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI HOÀNG SA, TRƯỜNG SA QUA CÁC NGUỒN THƯ TỊCH (3)


* Bài 3: Triều Nguyễn chính thức chiếm hữu và tiếp tục thực thi chủ quyền trong suốt thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX
(Cadn.com.vn) - Theo một tờ trình còn lưu giữ tại nhà thờ họ Võ ở huyện đảo Lý Sơn đề ngày mùng 1 tháng 10 năm Gia Long thứ hai (1803) thì Cai cơ ngự quản đội Hoàng Sa do Khâm sai Cai thủ cửa biển Sa Kỳ có tước hầu (Phú Nhuận hầu) kiêm quản. Một tờ đơn khác lưu giữ tại nhà thờ họ Phạm Quang cũng ở huyện đảo Lý Sơn đề ngày 11 tháng 2 năm thứ 3 niên hiệu Gia Long (1804) xin tách ra khỏi địa phận xã An Hải trong đất liền, trong đó ghi rõ, liền ngay sau khi Nguyễn Ánh đánh lấy được vùng đất Quảng Ngãi, người dân ở Cù lao Ré đã làm đơn lập lại đội Hoàng Sa như trước. Một tài liệu khác là tờ lệnh được gia tộc họ Đặng ở Lý Sơn cất giữ suốt 176 năm trước khi trao tặng cho chính quyền, cho biết khá cụ thể về hoạt động vãng thám Hoàng Sa: “Chiếu theo tháng trước tiếp được công văn của Bộ Binh, vâng sắc (Triều đình) cho bộ ấy trước là phải thi hành việc tuyển chọn, trưng tập 3 thuyền, sửa sang bền chắc, đợi sẵn ở kinh. Các phái viên và lính thủy đi trước để cùng thám sát các vùng của xứ Hoàng Sa...”. Đấy là nguồn tài liệu trong dân, còn những thông tin về sự chiếm hữu và khai thác đối với Hoàng Sa và Trường Sa thì có rất nhiều trong những tài liệu chính thống của Triều đình. Trong số châu bản từ năm 1830-1847 hiện còn 11 văn bản, gồm 7 bản tấu, 2 phúc tấu và 2 dụ của vua Minh Mạng liên quan đến Hoàng Sa. Trong số phúc tấu và tấu đó có 2 bản của Thủ ngữ Đà Nẵng tâu báo với vua Minh Mệnh về việc tàu buôn Pháp từ cảng này đi Lữ Tống bị va phải đá ngầm ở phía Tây đảo Hoàng Sa, cảng đã phái thuyền đi cứu hộ; còn phúc tấu đề ngày 12-2 năm Minh Mạng thứ 17 (1836) của Bộ Công về việc cử đội thuyền đi Hoàng Sa được nhà vua châu phê: “Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4,5 thước, rộng 5 tấc, khắc sâu hàng chữ “Năm Bính Thân (Minh Mệnh 17), họ tên cai đội thủy quân phụng mệnh đi đo đạc cắm mốc ở Hoàng Sa để lưu dấu”.
Sau châu bản là bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ do Nội các Triều Nguyễn biên soạn kéo dài 13 năm, từ 1843 đến khi hoàn thành và có chiếu chỉ khắc in vào năm 1855 theo thể loại Hội điển. Quyển 207 về quy chế đàn miếu viết rõ hơn công việc xây dựng trên đảo: Vào năm Minh Mệnh thứ 16 [1835] vua “chuẩn y lời tâu cho tỉnh Quảng Ngãi dựng miếu Hoàng Sa một gian (làm kiểu nhà đá) ở phía tây nam cồn cát trắng. Bên tả dựng bia đá (cao 1 thước 5 tấc, mặt 1 thước 2 tấc), phía trước xây bức bình chắn, phía tả phía hữu và phía sau trồng các loại cây”. Quyển 221 thì cho biết rất cụ thể sự chỉ đạo của Triều đình đối với việc đo đạc lập đồ bản về Hoàng Sa một cách khoa học hơn: “Năm thứ 17, vua chuẩn y lời tâu rằng: “Hoàng Sa thuộc khu vực ngoài biển rất là hiểm yếu” nên “vẫn phái biền binh, thủy quân và giám thành cưỡi một chiếc thuyền sơn đen lái đến đích chỗ Hoàng Sa. Không cứ đảo nào, cửa bể nào thuyền chạy đến, sẽ đem nơi ấy chiều dài chiều ngang bề cao bề rộng chu vi đều bao nhiêu, và bốn bề nước bể nông hay sâu? có cát ngầm, đá mỏm hay không, ở hình thế hiểm trở hay bình thường xem đo tỏ tường vẽ thành đồ bản”.
Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa
 tại huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi).
Cùng với bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ có hai bộ sách Đại Nam thực lục chính biên và Đại Nam nhất thống chí đều do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn cũng ghi lại rất nhiều sự việc liên quan đến quá trình thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Triều Nguyễn, bao gồm cử đội Hoàng Sa đi đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ; dựng đền thờ thần; lập bia; trồng cây cối để tàu thuyền đi lại ngoài khơi xa dễ nhận biết,  ngõ hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Chẳng hạn, quyển 22 sách Đại Nam thực lục chính biên cho biết, năm 1803 “Lấy cai cơ Võ Văn Phú làm Thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập đội Hoàng Sa”. Năm 1815 vua Gia Long “Sai đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển” (quyển 50). Như vậy, điều này phù hợp với nội dung tờ trình còn lưu giữ tại nhà thờ họ Võ ở huyện đảo Lý Sơn như đã dẫn ở trên. Năm sau (1816) nhà vua lại “sai thủy quân và đội Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để thăm dò đường thủy” (quyển 52). Quyển 165 ghi lại việc Bộ Công tâu vua Minh Mệnh định lệ hằng năm đến hạ tuần tháng giêng, xin phái thủy quân và vệ Giám thành đáp thuyền ô từ Thuận An đến Quảng Ngãi giao nhiệm vụ cho quan hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, dẫn đường ra Hoàng Sa đo đạc, vẽ thành bản đồ như nội dung thể hiện trong quyển 221 của Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ. Cũng sách này, quyển 154 mô tả khá kỹ về hình dáng của Hoàng Sa.
Sách Đại Nam nhất thống chí (tỉnh Quảng Ngãi) cũng mô tả quần đảo Hoàng Sa như đã thể hiện ở quyển 154 của Đại Nam thực lục chính biên. Cả sách Quốc triều chính biên toát yếu cũng ghi lại nội dung tương tự.
Và mặc dù đã bị Pháp thực hiện chính sách “bảo hộ” kể từ năm 1884  nhưng Triều đình Huế vẫn xem Hoàng Sa và Trường Sa là một bộ phận lãnh thổ của vương quốc và luôn thể hiện sự quan tâm của mình đối với hai quần đảo này. Kể từ sau khi Pháp thiết lập địa lý hành chính đối với quần đảo Hoàng Sa, hàng năm Triều đình Huế phái một viên quan cùng với viên đại diện của chính quyền Pháp ở Trung Kỳ ra kinh lý đảo. Không chỉ có thế, vua Bảo Đại còn ký đạo dụ số 8 vào ngày 30-3-1938 khẳng định “các cù lao Hoàng Sa thuộc về chủ quyền nước Nam đã lâu đời” và “trước chuẩn tháp nhập các cù lao Hoàng Sa (Archipel des Iles Paracels) vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên; về phương diện hành chánh, các cù lao ấy thuộc dưới quyền quan Tỉnh hiến tỉnh ấy”. Gần đây nhà nghiên cứu Phan Thuận An đã phát hiện và trao tặng cho Bộ Ngoại giao hai tài liệu gồm một thư tiếng Pháp của Khâm sứ Trung Kỳ Graffeuil đề ngày 2-2-1939 và một tờ tâu bằng tiếng Việt đề ngày 3-2-1939 của Tổng lý Ngự tiền Văn phòng lên vua Bảo Đại về nội dung lá thư của viên Khâm sứ xin nhà vua truy tặng Long tinh của Nam triều cho chánh cai đội hạng nhất của ngạch lính khố xanh Trung Kỳ là Louis Fontan vừa tạ thế vì bị nhiễm bệnh trong thời gian công tác ở đảo Hoàng Sa. Ngoài ra, tại Trung tâm lưu trữ quốc gia II còn lưu giữ nhiều tài liệu của chính quyền Việt Nam Cộng hòa như danh sách nhân sự và quân nhân trên đảo, cùng những công điện về việc theo dõi và bắt giữ thuyền nhân Trung Quốc xâm nhập một số đảo trên quần đảo Hoàng Sa v.v...
Những tài liệu trên cho thấy, nhà nước phong kiến Việt Nam dưới thời các vua Triều Nguyễn đã chính thức chiếm hữu và tiếp tục thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong suốt thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX. Sự thực thi chủ quyền đó lại được tiếp diễn dưới thời chính quyền Việt Nam Cộng hòa đối với Hoàng Sa cho đến ngày 19-1-1974 bằng việc ra Sắc lệnh đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam; quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước Tuy, cùng với đưa quân đến đồn trú và tổ chức các hoạt động nghiên cứu tại hai quần đảo này. Tư liệu về các hoạt động này đều được lưu giữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tiếp quản, thực thi chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa kể từ tháng 4-1975 cho đến nay.
PGS, TS Ngô Văn Minh


Thứ Hai, 18 tháng 3, 2013

Giới thiệu tác giả Trúc Phương (Trương Phước)


         TÌNH TRĂNG XƯA
   Trúc Phương
                                          *Tặng HT TrườngTiểu học Tân Hiệp

                               Bình minh
                               tại chốn Bải Làng
                               Gặp nhau ngắn ngủi
                               thời gian chưa tường
                               Bao nhung nhớ
                               bấy nhiêu thương
                               Cạn trao
                               giây phút
                               xây trường ngày mai
                               Chuẩn một
                               rồi lại chuẩn hai
                               Cảnh quang xanh đẹp
                               tương lai rạng ngời
                            
                               Ra về
                               vương vấn
                               Đào ơi !
                               Cá ngon Tân Hiệp
                               thắm phơi nghĩa tình
                               Hởi người duyên dáng
                                xinh xinh
                               Gợi ta nỗi nhớ
                               chút tình trăng xưa.
                                  09/03/2013
                                TP


      CÙ LAO CHÀM TRONG TÔI
                                                   Trúc Phương

                            Ta về biển gọi Cù Lao . . .
                            Lên tàu cao tốc biển chao sóng dồi
                            Hướng về đảo nhỏ đẹp ơi ! ! !
                            Hòn Chồng bơi lặn tuyệt vời san hô
                            Bàng reo nắng ấm điểm tô
                            Thú vui câu cá hẹn hò đón đưa
                            Võng đu hóng mát canh trưa
                            Râm ran chuyện kể nắng mưa sự đời
                            Chiều lên biển tắm nghĩ ngơi
                            Đêm về náo nức trò chơi lửa hồng
                            Giao lưu tình cảm mặn nồng
                            Hát ca nhảy múa hoà đồng Quế Trung
                            Cùng ai chia sẽ riêng chung
                            Thâu đêm lửa đỏ bập bùng biển khơi
                            Mồi ngon rượu quí bạn mời
                            Chén tình chén nghĩa hát lời sắc son
                            Tò Vò Hang Cả chon von
                            Đá xây tổ ấm nuôi con Yến Sào
                            Yến Sào quý giá thanh cao
                            Ấy là đặc sản ngọt ngào Hội An
                            Biết bao tình cảm chứa chan
                            Cả đoàn chiêm ngưỡng huyền hoang Hang Bà
                            Sáng lòng ta thốt câu ca
                            Đá sinh trời tạo món quà thiên nhiên
                            Bãi Làng cảnh thái bình yên
                            Cù Lao để lại mối duyên bận lòng
                            Ta về lưu luyến hoài mong
                            Hẹn ngày trở lại thong dong biển tình
                            9.3.2013
                          TP