* Bài cuối: Các học giả trên thế giới nói gì về
chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa?
(Cadn.com.vn) - Cái gọi là “chủ quyền không thể tranh
cãi” đối với hai quần đảo mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa (tức
Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam), cũng như với gần 80% diện tích
của Biển Nam Trung Hoa (tức biển Đông), không chỉ bị các học giả Việt
Nam phản bác mà còn bị các học giả trên thế giới phủ nhận, chỉ
trích gay gắt.
Trong cuốn sách Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa, do NXB L’Harmattan ấn hành tại Pari tháng 3-1996, bà
Monique Chemillier – Gendreau giáo sư khoa Công pháp và Khoa học Chính
trị của Trường Đại học Paris VII-Denis Diderot, một gương mặt sáng giá
của Hội Luật gia quốc tế, đã đưa ra những luận cứ nghiêm túc, khách
quan về vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo này. Nhận định đây là
một cuộc tranh chấp vừa có tính lịch sử vừa có tính pháp lý nên
sử gia Munique yêu cầu phải xem xét kỹ các nguồn sử liệu để trên cơ
sở đó các luật sư đưa ra các kết luận của mình.
Đối với những lập luận của Trung Quốc, bà cho rằng
những tài liệu mà các học giả Trung Quốc trưng dẫn như Nam châu dị
vật chí, Phù Nam truyện, Dị vật chí, Lĩnh ngoại đại đáp, Chư phiên
chí, Đảo di chí lược, Đông Tây dương khảo, Vũ bị Chí v.v..., đều “chỉ
được xếp vào số các tài liệu chứng minh sự hiểu biết chung các địa
điểm chứ không có ích gì cho lập luận pháp lý”. Việc Trung Quốc vin
vào cái cớ trong thư tịch cổ của mình có nói đến việc trông thấy
các đảo ở Nam Hải để rồi cứ chủ trương “hễ cái gì tôi thấy là của
tôi” thì đó chính là một sự xâm lược, nhưng “bằng cách quanh co đó
và không đếm xỉa đến các dân tộc, người ta có thể tiết kiệm không
dùng từ xâm chiếm mà nói đơn giản là phát hiện”. Nữ giáo sư này
chỉ ra rằng, các tham vọng của Trung Quốc còn mâu thuẫn bởi chính
các nguồn tư liệu khác của họ, bởi có quá nhiều tài liệu địa lý
cổ mô tả và phân định rõ lãnh thổ của đế chế Trung Hoa có điểm tận
cùng ở phía nam là đảo Hải Nam. Và rằng, chính cuốn Phủ biên tạp
lục của Lê Quý Đôn viết về chi tiết các thủy thủ Việt Nam đắm
thuyền gần quần đảo Hoàng Sa, bị trôi dạt tới bờ biển Trung Quốc,
được các nhà chức trách Trung Quốc điều tra và đưa về quê hương mà
không có sự phản kháng nào, cả việc viên Tổng đốc Lưỡng Quảng từ
chối trách nhiệm giải quyết hai vụ ngư dân đảo Hải Nam cướp lấy hàng
hóa trên hai con tàu đắm của Đức và của Nhật tại quần đảo Hoàng Sa
với lời giải thích Hoàng Sa là các đảo đã bỏ rơi, không thuộc về
Trung Quốc, đủ cho thấy lập luận về chủ quyền đối với quần đảo này
của của Trung Quốc thời gian qua là không có cơ sở.
|
Bìa sách “Chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa”
của nữ giáo sư Monique Chemillier - Gendreau |
Ngược lại, bà Monique Chemillier – Gendreau đánh giá
cao các nguồn tài liệu của Việt Nam, vì có rất nhiều và ăn khớp
với nhau, lại được bổ sung bằng các ghi chép của nước ngoài đáng tin
cậy. Sau khi dẫn lại các nguồn thư tịch như Phủ biên tạp lục của Lê
Quý Đôn, các châu bản và các sách Đại Nam thực lục chính biên, Đại
Nam nhất thống chí, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ của Triều
Nguyễn, bà đi đến khẳng quyết: Với quần đảo Hoàng Sa “các quyền của
Việt Nam lâu đời hơn và vững chắc hơn mặc dù các đòi hỏi của Trung
Quốc đã được cụ thể hóa nhờ việc chiếm đóng bằng vũ lực cách đây
39 năm đối với một bộ phận quần đảo và cách đây 29 năm đối với bộ
phận kia. Việc xem xét một cách chi tiết các danh nghĩa lịch sử như
tôi đã cố gắng thể hiện trên các trang trước dựa trên các tư liệu
chắc chắn nhất, chững tỏ danh nghĩa của Việt Nam đã được khẳng định
rõ ràng ngay từ đầu thế kỷ XVIII. Các luận cứ mà TQ viện dẫn cho
đến nay không cho phép xác nhận sự tồn tại các mối quan hệ pháp lý
xưa của thiên triều Trung Quốc với các lãnh thổ đó ” . Với quần đảo
Trường Sa tác giả cũng cho rằng khó mà đưa ra những bằng chứng để
bác bỏ một sự đồng nhất hóa hai quần đảo (Hoàng Sa và Trường Sa)
trong sự quản lý của các vua An Nam. Và như vậy, “Ứng cử viên nghiêm
chỉnh nhất giành danh nghĩa trên các đảo này về cả căn cứ lịch sử
cổ xưa của họ lẫn cơ chế pháp lý về thừa kế các quyền đã được
thực dân khẳng định, đúng là Việt Nam. Nam Việt Nam đến năm 1975 rồi
nước Việt Nam tái thống nhất sau đó đã xác định sự có mặt rộng
rãi nhất có thể có bằng cách chiếm đóng một số đảo nhỏ”. Còn với
việc Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa và một số
đảo của quần đảo Trường Sa, nữ giáo sư này cho rằng, đấy là một sự
vi phạm thô bạo luật quốc tế hiện đại (Hiến chương Liên Hiệp Quốc:
Điều 2, khoản 4) nên “sẽ không bao giờ và bằng bất kỳ cách nào có
thể chuyển thành một danh nghĩa có giá trị và được công nhận”.
Với giáo sư Carlyle A. Thayer (Học viện Quốc phòng
Úc) thì chỉ nguồn tài liệu bản đồ thôi cũng đủ để ông nhận định:
“Những tấm bản đồ, chẳng hạn như sưu tập bản đồ của Trần Thắng, đã
cung cấp những hiểu biết mới về lịch sử hình thành những tuyên bố
về chủ quyền hiện nay. Những bản đồ này đã chứng tỏ mâu thuẫn của
Trung Quốc trong việc tuyên bố “chủ quyền không thể tranh cãi” của họ.
Cùng lên tiếng phản đối những yêu sách phi lý của
Trung Quốc, khi Cty dầu mỏ ngoài khơi nước này ký một hợp đồng đặc
nhượng cho Cty Năng lượng Cresitoner của Mỹ (8-5-1992) vào thăm dò dầu
khí tại khu vực Tư Chính và lập luận rằng khu vực này thuộc vùng
nước kế cận quần đảo Nam Sa, lãnh thổ của Trung Quốc, luật sư Brice
M. Claget đã đưa ra tài liệu nghiên cứu phân tích về mặt pháp lý liên
quan đến khu vực này đăng trên tạp chí “Dầu mỏ và khí đốt của Anh”,
số 10 và 11/1995. Trong đó, ông đã chứng minh rằng “yêu sách của Trung
Quốc là bất hợp lý”, đối lập với những nguyên tắc của luật pháp
quốc tế điều chỉnh quyền đối với thềm lục địa và ranh giới biển,
và sẽ bị bất kỳ một tòa án nào bác bỏ khi áp dụng Công ước của
Liên Hợp Quốc về luật Biển hay luật tập quán quốc tế. Vị luật sư
này còn nhấn mạnh rằng, “yêu sách về vùng nước lịch sử của Trung
Quốc, nếu quả có vùng nước lịch sử ấy cũng sẽ bị đánh bật không
chỉ do Trung Quốc không khẳng định được yêu sách này, mà còn do luật pháp
quốc tế nữa”.
Trong lúc Trung Quốc còn úp mở về tấm bản đồ chín
đoạn (còn gọi là đường chữ U hay đường lưỡi bò), nữ giáo sư Monique
Chemillier – Gendreau đã gọi đó là tham vọng biến Nam Hải theo cách
gọi của những nhà địa lý học thành “vũng hồ quốc gia” của Trung
Quốc. Tham vọng đó không những trái ngược với Công ước Liên Hiệp Quốc
về Luật Biển 1982 mà còn cả với quy định của Trung Quốc về chiều
rộng lãnh hải. Tháng 5-2009, khi Trung Quốc công khai dương mưu này bằng
việc chính thức yêu cầu Liên Hiệp Quốc lưu truyền trong cộng đồng các
nước thành viên tấm bản đồ chín đoạn nhằm yêu sách không chỉ các
đảo, đá mà toàn bộ vùng biển trong đó, có học giả đã mỉa mai gọi
đấy là “tuyên bố chủ quyền mặt trăng”. Hai học giả danh tiếng về
luật quốc tế của Châu Âu là Erik Franckx & Marco Benatar trong một
nghiên cứu Chấm và vạch trong Biển Đông: nhìn nhận từ Luật chứng cứ
bản đồ đã đưa ra một phân tích về mặt pháp lý quốc tế đối với bản
đồ này. Theo hai tác giả, các yếu tố sau đây chứng tỏ sự thiếu sót
về chứng cứ vốn có của đường chín đoạn của Trung Quốc. Một là,
các bản đồ đường chín đoạn của Trung Quốc đưa ra không tương thích
nhau. Bản đồ trước năm 1953 bình thường gồm có 11 vạch nhưng sau đó
chỉ còn 9 đoạn. Thậm chí, một bản đồ điện tử trực tuyến gần đây
của Cục Khảo sát và Bản đồ Nhà nước Trung Quốc ngày 21- 10- 2010
lại thêm một đoạn nữa mà không có lý do nào được đưa ra cho việc
loại bỏ hai vạch trong quá khứ hay việc thêm vào vạch thứ mười mới
gần đây. Hai là, ký hiệu bản đồ rời rạc, nhập nhằng, không thể hiện
được mục đích về tính rõ ràng, bởi cách mô tả của đường 9 đoạn sai
lệch với các tiêu chuẩn vẽ bản đồ quốc tế được Tổ chức Thủy văn
Quốc tế đề ra. Ba là, thiếu tính trung lập vì chỉ do Trung Quốc tự
vẽ ra đường 9 đoạn, chứ không có một tấm bản đồ nào của nước khác
vẽ như vậy. Bốn là, thiếu sự chính xác nghiêm ngặt về tiêu chuẩn kỹ
thuật, vì cho đến nay nó chưa bao giờ được phân ranh giới chính xác,
do đó thiếu các tọa độ địa lý chính xác. Năm là, nó bị các nước
trong khu vực phản đối. Hai tác giả nói thẳng, yêu sách đường 9 đoạn
lạ lùng của Trung Quốc là quá đáng, thể hiện những tham vọng “cực
kỳ bất thường” của Trung Quốc đối với vùng biển Đông.
Từ những phân tích trên, hai tác giả đi đến kết
luận: Việc Trung Quốc duy trì một tuyên bố đơn phương trong
một khoảng thời gian kéo dài mà không xem xét tới quyền lợi của các
bên quan tâm khác là đồng nghĩa với việc áp đặt một việc đã rồi.
Điều này sẽ vuột mất đi khi đối mặt với luật quốc tế, vì luật
pháp quốc tế ngăn không cho các nước mạnh yêu sách “giành phần trọn”
gây thiệt hại cho các nước láng giềng yếu hơn.
PGS, TS Ngô Văn Minh