Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa tại huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi). |
Thứ Năm, 21 tháng 3, 2013
CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI
HOÀNG SA, TRƯỜNG SA QUA CÁC NGUỒN THƯ TỊCH (3)
* Bài 3: Triều Nguyễn chính thức chiếm hữu và tiếp
tục thực thi chủ quyền trong suốt thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX
(Cadn.com.vn) - Theo một tờ trình còn lưu giữ tại nhà
thờ họ Võ ở huyện đảo Lý Sơn đề ngày mùng 1 tháng 10 năm Gia Long
thứ hai (1803) thì Cai cơ ngự quản đội Hoàng Sa do Khâm sai Cai thủ cửa
biển Sa Kỳ có tước hầu (Phú Nhuận hầu) kiêm quản. Một tờ đơn khác
lưu giữ tại nhà thờ họ Phạm Quang cũng ở huyện đảo Lý Sơn đề ngày
11 tháng 2 năm thứ 3 niên hiệu Gia Long (1804) xin tách ra khỏi địa phận
xã An Hải trong đất liền, trong đó ghi rõ, liền ngay sau khi Nguyễn
Ánh đánh lấy được vùng đất Quảng Ngãi, người dân ở Cù lao Ré đã
làm đơn lập lại đội Hoàng Sa như trước. Một tài liệu khác là tờ
lệnh được gia tộc họ Đặng ở Lý Sơn cất giữ suốt 176 năm trước khi
trao tặng cho chính quyền, cho biết khá cụ thể về hoạt động vãng
thám Hoàng Sa: “Chiếu theo tháng trước tiếp được công văn của Bộ Binh,
vâng sắc (Triều đình) cho bộ ấy trước là phải thi hành việc tuyển
chọn, trưng tập 3 thuyền, sửa sang bền chắc, đợi sẵn ở kinh. Các
phái viên và lính thủy đi trước để cùng thám sát các vùng của xứ
Hoàng Sa...”. Đấy là nguồn tài liệu trong dân, còn những thông tin về
sự chiếm hữu và khai thác đối với Hoàng Sa và Trường Sa thì có rất
nhiều trong những tài liệu chính thống của Triều đình. Trong số châu
bản từ năm 1830-1847 hiện còn 11 văn bản, gồm 7 bản tấu, 2 phúc tấu
và 2 dụ của vua Minh Mạng liên quan đến Hoàng Sa. Trong số phúc tấu
và tấu đó có 2 bản của Thủ ngữ Đà Nẵng tâu báo với vua Minh Mệnh
về việc tàu buôn Pháp từ cảng này đi Lữ Tống bị va phải đá ngầm ở
phía Tây đảo Hoàng Sa, cảng đã phái thuyền đi cứu hộ; còn phúc tấu
đề ngày 12-2 năm Minh Mạng thứ 17 (1836) của Bộ Công về việc cử đội
thuyền đi Hoàng Sa được nhà vua châu phê: “Mỗi thuyền vãng thám Hoàng
Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4,5 thước, rộng 5 tấc,
khắc sâu hàng chữ “Năm Bính Thân (Minh Mệnh 17), họ tên cai đội thủy
quân phụng mệnh đi đo đạc cắm mốc ở Hoàng Sa để lưu dấu”.
Sau châu bản là bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
do Nội các Triều Nguyễn biên soạn kéo dài 13 năm, từ 1843 đến khi
hoàn thành và có chiếu chỉ khắc in vào năm 1855 theo thể loại Hội
điển. Quyển 207 về quy chế đàn miếu viết rõ hơn công việc xây dựng
trên đảo: Vào năm Minh Mệnh thứ 16 [1835] vua “chuẩn y lời tâu cho tỉnh
Quảng Ngãi dựng miếu Hoàng Sa một gian (làm kiểu nhà đá) ở phía tây
nam cồn cát trắng. Bên tả dựng bia đá (cao 1 thước 5 tấc, mặt 1 thước
2 tấc), phía trước xây bức bình chắn, phía tả phía hữu và phía sau
trồng các loại cây”. Quyển 221 thì cho biết rất cụ thể sự chỉ đạo
của Triều đình đối với việc đo đạc lập đồ bản về Hoàng Sa một
cách khoa học hơn: “Năm thứ 17, vua chuẩn y lời tâu rằng: “Hoàng Sa
thuộc khu vực ngoài biển rất là hiểm yếu” nên “vẫn phái biền binh, thủy
quân và giám thành cưỡi một chiếc thuyền sơn đen lái đến đích chỗ
Hoàng Sa. Không cứ đảo nào, cửa bể nào thuyền chạy đến, sẽ đem nơi
ấy chiều dài chiều ngang bề cao bề rộng chu vi đều bao nhiêu, và bốn
bề nước bể nông hay sâu? có cát ngầm, đá mỏm hay không, ở hình thế
hiểm trở hay bình thường xem đo tỏ tường vẽ thành đồ bản”.
Cùng với bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ có
hai bộ sách Đại Nam thực lục chính biên và Đại Nam nhất thống chí
đều do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn cũng ghi lại rất nhiều
sự việc liên quan đến quá trình thực thi chủ quyền đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Triều Nguyễn, bao gồm cử đội Hoàng Sa
đi đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ; dựng đền thờ thần; lập bia; trồng
cây cối để tàu thuyền đi lại ngoài khơi xa dễ nhận biết, ngõ
hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Chẳng hạn, quyển 22 sách Đại Nam
thực lục chính biên cho biết, năm 1803 “Lấy cai cơ Võ Văn Phú làm Thủ
ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập đội Hoàng Sa”. Năm 1815
vua Gia Long “Sai đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa
thăm dò đường biển” (quyển 50). Như vậy, điều này phù hợp với nội
dung tờ trình còn lưu giữ tại nhà thờ họ Võ ở huyện đảo Lý Sơn như
đã dẫn ở trên. Năm sau (1816) nhà vua lại “sai thủy quân và đội Hoàng
Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để thăm dò đường thủy” (quyển 52). Quyển 165
ghi lại việc Bộ Công tâu vua Minh Mệnh định lệ hằng năm đến hạ tuần
tháng giêng, xin phái thủy quân và vệ Giám thành đáp thuyền ô từ
Thuận An đến Quảng Ngãi giao nhiệm vụ cho quan hai tỉnh Quảng Ngãi và
Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, dẫn đường ra Hoàng Sa đo đạc,
vẽ thành bản đồ như nội dung thể hiện trong quyển 221 của Khâm định
Đại Nam hội điển sự lệ. Cũng sách này, quyển 154 mô tả khá kỹ về
hình dáng của Hoàng Sa.
Sách Đại Nam nhất thống chí (tỉnh Quảng Ngãi) cũng
mô tả quần đảo Hoàng Sa như đã thể hiện ở quyển 154 của Đại Nam
thực lục chính biên. Cả sách Quốc triều chính biên toát yếu cũng ghi
lại nội dung tương tự.
Và mặc dù đã bị Pháp thực hiện chính sách “bảo
hộ” kể từ năm 1884 nhưng Triều đình Huế vẫn xem Hoàng Sa và
Trường Sa là một bộ phận lãnh thổ của vương quốc và luôn thể hiện
sự quan tâm của mình đối với hai quần đảo này. Kể từ sau khi Pháp
thiết lập địa lý hành chính đối với quần đảo Hoàng Sa, hàng năm
Triều đình Huế phái một viên quan cùng với viên đại diện của chính
quyền Pháp ở Trung Kỳ ra kinh lý đảo. Không chỉ có thế, vua Bảo Đại
còn ký đạo dụ số 8 vào ngày 30-3-1938 khẳng định “các cù lao Hoàng Sa
thuộc về chủ quyền nước Nam đã lâu đời” và “trước chuẩn tháp nhập
các cù lao Hoàng Sa (Archipel des Iles Paracels) vào địa hạt tỉnh Thừa
Thiên; về phương diện hành chánh, các cù lao ấy thuộc dưới quyền quan
Tỉnh hiến tỉnh ấy”. Gần đây nhà nghiên cứu Phan Thuận An đã phát
hiện và trao tặng cho Bộ Ngoại giao hai tài liệu gồm một thư tiếng
Pháp của Khâm sứ Trung Kỳ Graffeuil đề ngày 2-2-1939 và một tờ tâu
bằng tiếng Việt đề ngày 3-2-1939 của Tổng lý Ngự tiền Văn phòng lên
vua Bảo Đại về nội dung lá thư của viên Khâm sứ xin nhà vua truy tặng
Long tinh của Nam triều cho chánh cai đội hạng nhất của ngạch lính
khố xanh Trung Kỳ là Louis Fontan vừa tạ thế vì bị nhiễm bệnh trong
thời gian công tác ở đảo Hoàng Sa. Ngoài ra, tại Trung tâm lưu trữ
quốc gia II còn lưu giữ nhiều tài liệu của chính quyền Việt Nam Cộng
hòa như danh sách nhân sự và quân nhân trên đảo, cùng những công điện
về việc theo dõi và bắt giữ thuyền nhân Trung Quốc xâm nhập một số
đảo trên quần đảo Hoàng Sa v.v...
Những tài liệu trên cho thấy, nhà nước phong kiến
Việt Nam dưới thời các vua Triều Nguyễn đã chính thức chiếm hữu và
tiếp tục thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa trong suốt thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX. Sự thực thi chủ
quyền đó lại được tiếp diễn dưới thời chính quyền Việt Nam Cộng
hòa đối với Hoàng Sa cho đến ngày 19-1-1974 bằng việc ra Sắc lệnh
đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam; quần đảo Trường Sa trực
thuộc tỉnh Phước Tuy, cùng với đưa quân đến đồn trú và tổ chức các
hoạt động nghiên cứu tại hai quần đảo này. Tư liệu về các hoạt động
này đều được lưu giữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia. Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tiếp quản, thực thi chủ quyền đối
với quần đảo Trường Sa kể từ tháng 4-1975 cho đến nay.
PGS, TS Ngô Văn Minh
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét